gốm sứ việt nam qua các thời kỳ

Gốm sứ Việt Nam đã đi qua hàng trăm năm giữ gìn và phát triển để có như bây giờ. Trải qua những biến cố, thăng trầm cùng đất nước nhưng những tinh hoa gốm Việt vẫn còn nguyên giá trị, qua thời gian luôn đổi mới theo từng giai đoạn, tích lũy kinh nghiệm cho từng thế hệ để đến ngày nay, chúng ta đã có Lịch sử gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ. Gốm sứ Việt Nam đã trải qua những thăng trầm lịch sử, tuy nhiên vẫn giữ được những nét tinh xảo, những giá trị truyền thống của thế hệ đi trước để có được một thị trường gốm sứ phát triển mạnh như hiện nay Top 5+ món quà tặng sếp nữ 20/10 ý nghĩa và sang trọng Bình hút tài lộc. Bình hút lộc được làm từ gốm sứ Bát Tràng, trang trí hoàn toàn bằng thủ công dưới những bàn tay tài hoa của những nghệ nhân làng gốm. Đây là vật phẩm phong thủy, có khả năng hút tài lộc, mang lại may mắn cho ai sở hữu nó. Vay Nhanh Fast Money. Lịch sử đồ gốm Việt Nam đã bắt đầu từ những món đồ bằng đất sét trộn bột vỏ sò không tráng men, dùng khuôn bằng giỏ đan, màu nâu đậm hay nâu nhạt …qua những vật tích tìm được ở Hoà Bình, ở Bắc Sơn, ở Quảng Yên, ở Thanh Hoá. Trong phạm vi đồ gốm – nét văn minh sơ khởi nhất của con người, bởi vì không có đồ gốm để nấu nướng, cất giữ, ăn uống thì nền văn minh không hình thành – ông cha ta tiếp tục phát huy, học hỏi và ứng dụng kinh nghiệm vào việc chế tạo đồ gốm, tạo nên các nền văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá ông Sơn . Dù di tích còn rất ít, nhưng đồ gốm Việt Nam trong thời này đã cho thấy sắc thái của một nền văn hóa cá biệt. Trong những thế kỷ sau đó, đồ gốm Việt Nam đạt được mức phát triển rất cao, đã xuất cảng sang Ả Rập, Nam Dương… Thạp, hũ, liễn trang trí hoa và chim. Gốm hoa nâu, triều Trần thế kỷ 13,14. Sang thế kỷ thứ 10, đồ gốm mang một sắc thái khác với nước men trong, dày, khá đều, với hoa văn chim hạc, cọp, voi, hoa sen, hoa cúc… đã xuất hiện nhiều. Người thợ Việt Nam đã biết cách làm các đường rạn thưa hay dày theo ý muốn. Rồi từ đời Lý đầu thế kỷ 11 đồ gốm Việt Nam phát triển một cách huy hoàng. Nhiều loại men các loại Lý Nâu, Lý en, Lý Trắng, Lý Lục, men ngọc, nhiều hoa văn, nhiều thể loại tràn lan khắp nơi, từ chốn triều đình, chùa, miếu đến thôn dã trong suốt từ thế kỷ 11 đến hết thế kỷ 16 đời Hậu Lê. Hình dáng gốm Việt Nam gồm có dĩa, đĩa, tô, chén, lọ, chai và bình. Cả những kiểu đặc biệt tạo ra bởi nghệ nhân đời Minh như hũ và chén có bệ của thời kỳ 1403-1424 cũng có tương đương trong các loại đồ gốm Việt Nam. Đồ gốm đất Việt Nam được cấu tạo dày và chắc hơn đồ gốm đất Trung Hoa. Thân hình cấu tạo bên ngoài màu nâu và ít có bị lẫn chất bụi hoặc sạn. Dưới chân đồ gốm đất hoặc là để nguyên hoặc được tráng một lớp trơn không màu hoặc một lớp tráng oxide sắt màu nâu. Có đủ loại các lớp trán trên đồ gốm Việt Nam. Loại đồ gốm tráng một màu là những loại thông dụng được xuất khẩu trong thời kỳ đầu. Trắng, xanh cây, đen và nâu là những loại thông dụng và được biết nhiều. Sự tiến triển của kỷ thuật đồ gốm trong giai đoạn đầu là sự trình bày bằng lớp oxide sắt đen và nâu dưới lớp tráng. Sắc thái trình bày rất thanh thoát và giản dị so với lối trình bày trên đồ gốm Trung Hoa. Sự chuyển tiếp từ lối trình bày bằng oxide sắt đến cách dùng cobalt xanh trời là một sự cải tiến quan trọng trong nghệ thuật đồ gốm Việt Nam và chứng kiến một mức độ sản xuất về xuất khẩu chưa từng có trong lịch sử đồ gốm Việt. Thống trang trí hoa sen, cúc dây. Gốm hoa nâu, triều Trần, thế kỷ 13 – 14 Những kiểu trình bày Việt Nam có đặc tính thanh thoát, sáng tạo độc lập khác hẳn với sự xếp đặt phong cảnh, sinh thú của lối trình bày Trung Hoa. Chim, cá, ngựa và nai là những sinh thú thường được trình bày cũng như các con vật huyền thoại như lân và phượng. Rồng tuy vậy lại rất hiếm trong các lối trình bày. Con cá trong đồ gốm Việt Nam, không giống cá kiểng đỏ của đồ gốm Trung Hoa, mà là con cá bông của sông ngòi Việt Nam. Đến giữa thế kỷ 15, đồ gốm xanh trời và trắng chiếm vị trí hàng đầu trong những hàng xuất khẩu. Cũng trong khoảng thời gian nay, một loại đồ gốm mới xuất hiện với cách dùng men trắng, chủ yếu màu đỏ và xanh trời, và thường phối hợp với lớp trình bày xanh trời ở lớp dưới. Nói đến tuyệt đỉnh của Gốm cổ Việt Nam ta không thể không nhắc đến tên “ Gốm Chu Đậu”. Đồ gốm Chu Đậu chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy biển suốt mấy trăm năm. Những món còn được lưu giữ ở các viện bảo tàng bên Châu Âu thì đã từng bị xếp lộn vào đồ gốm Trung Hoa. Đồ gốm Chu Đậu được phát hiện nhiều trong các ngôi mộ cổ, đình chùa, từ đường và nhiều nhất là dưới các tầu buôn chìm ngoài khơi Hội An, Đà Nẵng… Đồ gốm Chu Đậu hình dáng thanh tao, nước men trong mà mỏng, hoa văn đầy hình ảnh đời sống thôn làng Việt Nam. Đồ gốm Chu Đậu bắt đầu được sản xuất từ cuối thế kỷ 14, rực rỡ nhất vào thế kỷ 15, 16 rồi tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, trong khi các lò gốm khác ở Hải Dương còn sản xuất những món đồ không men nồi đất, chum, vạị.. cho đến thế kỷ 18, hay cho mãi đến bâygiờ như làng Cậy, làng Lâm Xuyên chuyên làm nồi đất không men. Đồ gốm Chu Đậu cũng có nhiều thứ như men ngọc celadon, men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trong với hoa văn mầu xanh men trắng chàm và men trắng trong với hoa văn ba mầu vàng, đỏ nâu và xanh lục men tam thái Men ngọc, men trắng, men nâu và men nâu đen thường bị lẫn với đồ gốm đời Lý Trần, tuy nhiên, hoa văn trên men Lý nhiều ảnh hưởng Phật Giáo, hoa văn Chu Đậu phản ảnh đời sống nông thôn Việt Nam, hoa văn trên men Lý thường được vẽ bằng cách khắc chìm hay khắc nổi, hoa văn Chu Đậu được vẽ bằng men mầu, men ngọc thời Chu Đậu cầm thấy nặng tay, chất đất thô hơn và tiếng gõ không thanh như men ngọc của người Tầụ Bình ấm thời Lý thường có vòi hình đầu rồng, hình vòi voi, hình đầu chim… Ngày nay, gốm trong tâm thức người Việt là Gốm của làng Bát Tràng, làng gốm Phù Lãng…tuy gốm hiện đại cũng có một số nét thay đổi nhưng về cơ bản vẫn giữ được truyền thống và linh hồn của gốm xưa. Có thể coi Gốm là dấu ấn của một nền văn minh lúa nước, của một nền văn hóa thuần Việt. Tác giả Thùy Dung Tổng hợp Continue Reading Nhân ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11, Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp với Hội Di sản Văn hóa Việt Nam và Sưu tập An Biên sẽ khai mạc trưng bày chuyên đề Gốm Việt Nam Một truyền thống riêng biệt - Nhìn từ Sưu tập An Biên vào ngày 19/11, công chúng có cơ hội thưởng lãm gần 70 hiện vật gốm men đặc sắc được lựa chọn từ bộ sưu tập cổ vật An Biên và một số hiện vật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Hành trình gốm Việt tại Triển lãm sẽ trải dài theo từng giai đoạn lịch sử. Bắt đầu với gốm Việt Nam 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Cách ngày nay trên năm, từ những kỹ thuật mới trong chế tác đồ gốm được phổ biến từ Trung Hoa, nghề gốm Việt Nam với trình độ và kinh nghiệm truyền thống sẵn có đã nhanh chóng tiếp thu, nắm vững và phát triển để tạo nên những sắc thái riêng biệt, trở thành một trong số ít các quốc gia có nghề sản xuất đồ gốm men ra đời sớm và phát triển liên hình nhà gốm, niên đại thế kỷ I-IIISự chuyển biến và đổi thay của nghề gốm trong giai đoạn này còn thể hiện ở quy mô và tổ chức sản xuất. Nếu như thời Đông Sơn trước đó, chúng ta chưa tìm thấy một trung tâm sản xuất nào, bởi những sản phẩm gốm chủ yếu là tự túc, tự cấp, không có sự chuyên biệt, với quy trình sản xuất đơn giản và gọn nhẹ, thì đến giai đoạn này, hàng loạt trung tâm sản xuất có quy mô lớn đã ra đời. Những cuộc khai quật di tích lò gốm cổ ở Tam Thọ Thanh Hoá, Đại Lai, Luy Lâu, Đương Xá Bắc Ninh, Thanh Lãng, Lũng Ngoại, Đồng Đậu Vĩnh Phúc cho thấy những thợ thủ công làm gốm thời kỳ này đã kết hợp được truyền thống gốm Đông Sơn với kỹ thuật sản xuất gốm tiên tiến đương thời của Trung Hoa để sản xuất ra dòng gốm mang sắc thái bản gốm thế kỷ I-IIIĐặc trưng của đồ gốm thời kỳ này có xương gốm dày, men mỏng thường không phủ hết đồ vật, men màu vàng ngà, trắng nhạt, trắng xám; trang trí hoa văn in nổi ô trám, hoa văn xương cá hoặc lá dừa, hình thoi, chữ S, văn chải, văn sóng nước... một số ấm, âu, hũ có trang trí hình cánh sen, chim, cá, đầu gà, đầu voi. Thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ VI, sản xuất đồ gốm ở khu vực phương Nam có những bước phát triển vượt bậc, xuất hiện một dòng gốm mới đó là gốm men trắng, men trắng xanh được nung với nhiệt độ cao, xương và men gốm cứng. Đây là một cuộc cách mạng trong sản xuất gốm sứ ở tầm mức thế nghiên cứu khai quật các lò gốm cổ ở Cổ Loa Hà Nội, Đại Lai, Luy Lâu, Đương Xá Bắc Ninh, Thanh Lãng, Đồng Đậu, Lũng Hòa Vĩnh Phúc, Tam Thọ Thanh Hóa thấy xuất hiện nhiều những mảnh gốm men trắng, men trắng xanh với loại hình phong phú. Do vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, Việt Nam thời kỳ này cũng đã bắt kịp và trở thành một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có thể sản xuất được loại gốm chất lượng cao gốm thế kỷ I-IIITriển lãm cũng giới thiệu giai đoạn 2 của gốm Việt Nam thế kỷ XI-XIV Từ thế kỷ thứ 10, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng các nhà nước phong kiến dân tộc độc lập. Nghề làm đồ gốm có sự phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế, văn hoá, tạo thành bản sắc riêng có, loại hình phong phú, trang trí đa dạng, độc đáo về mỹ thuật. Xuất hiện những lò gốm chuyên sản xuất sản phẩm phục vụ cung đình ngay tại khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long. Các lò gốm cũng đã được tìm thấy ở Thăng Long, Hải Dương, Nam Định, Thanh Hoá, Ninh gốm Việt Nam thời Lý - Trần đã phát triển mang tính độc lập, khám phá những đề tài trang trí mang tính bản địa của người Việt, đồng thời tiếp nhận, cải biến mạnh mẽ những yếu tố kỹ thuật, hình dáng, hoa văn đặc trưng của truyền thống sản xuất gốm sứ Trung Quốc thời Đường, Tống, tạo nên một trong những trang sử rực rỡ nhất của truyền thống sản xuất gốm sứ Việt liệu Gốm Hoa lam. Niên đại thế kỷ XIVĐồ gốm thời kỳ này được sản xuất phục vụ tiêu dùng từ cung đình đến dân gian, hình thành nhiều dòng gốm men với loại hình phong phú, trang trí đa dạng gốm men trắng, gốm men ngọc, gốm men xanh lục và vàng, gốm men nâu, gốm hoa nâu và cuối thế kỷ 14 xuất hiện gốm hoa men trắng rất phổ biến dưới thời Lý - Trần, có số lượng lớn, loại hình phong phú, nghệ thuật thẩm mỹ cao, trong số đó có nhiều loại được chế tác tinh xảo, hoa văn trang trí độc đáo mang tính biểu trưng cao quý như rồng, hoa sen, hoa cúc... Gốm men trắng có nhiều sắc độ khác nhau như trắng ngà, trắng đục, trắng sáng ngả xanh, bề mặt men nhẵn bóng, có những vết rạn nhỏ theo thời gian khiến cho nó mang một vẻ đẹp sâu lắng. Chất liệu Gốm men ngọc. Niên đại Thế kỷ XIII -XIVChất liệu Gốm hoa lam, niên đại thế kỷ XVKỹ thuật tạo hoa văn trên gốm men trắng cũng rất phong phú, biến ảo khôn lường khắc chìm, in khuôn, đắp nổi tạo cánh sen ngoài thân hoặc ấn lõm, khắc tạo múi dọc thân, trổ thủng... sử dụng kết hợp các kỹ thuật trên tạo nên sự thanh thoát, tinh tế, tinh xảo cho từng tác đoạn 3 của hành trình gốm Việt là từ thế kỷ XV-XVII, đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ mối quan hệ giao lưu thương mại giữa Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Đồ gốm là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, tạo điều kiện cho nghề sản xuất gốm ở Việt Nam phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng với nhiều trung tâm sản xuất mang tính chuyên môn hoá, nhiều chủng loại đồ gốm đạt đến trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao như các trung tâm sản xuất gốm sứ nổi tiếng Thăng Long, Bát Tràng Hà Nội, Nam Sách, Bình Giang Hải Dương... Kết quả khai quật khảo cổ học ở tàu cổ Cù Lao Chàm thu được trên hiện vật gốm Việt Nam xuất khẩu với loại hình phong phú, mỹ thuật đặc sắc; cùng với kết quả khai quật các lò gốm vùng Nam Sách, Bình Giang Hải Dương, đồ gốm tàu cổ Cù Lao Chàm góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử đồ gốm Việt liệu Gốm. Niên đại thế kỷ VIChất liệu Gốm men trắng. Niên đại Thế kỷ XII-XIIIChất liệu Gốm hoa nâu. Niên đại Thế kỷ XIII-XIVCuối cùng là Gốm Bát Tràng thế kỷ XVIII- XIX. Bát Tràng - một làng gốm truyền thống có từ thế kỷ 14 cũng bị ảnh hưởng, thị trường gốm xuất khẩu không còn, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí, đồ đặt hàng phù hợp thị hiếu. Cùng khám phá hành trình của gốm Việt Nam, công chúng cũng sẽ tìm hiểu được những thăng trầm của từng giai đoạn lịch sử. Để thêm yêu mến và trân trọng những sản phẩm văn hóa mang dấu ấn, bản sắc văn hóa Việt./. Mục lục1 Gốm sứ Việt Nam không ngừng phát triển qua mọi thời đại2 Tìm hiểu đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời Gốm thời Lý Gốm thời Trần Gốm thời Lê sơ Gốm sứ Chu Gốm sứ Bát Tràng3 Gốm sứ Việt Nam ngày nay có đặc điểm gì? Việt Nam là một trong những nơi gốm xuất hiện sớm. Theo các tài liệu khảo cổ, cách đây một vạn năm, ở Việt Nam đã ra đời loại gốm đất nung. Để tìm hiểu sự phát triển và hình thành nên nghề gốm sứ các bạn không thể bỏ qua bài chia sẻ [ Thuyết minh ] Tìm hiểu đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời đại sau đây Gốm sứ Việt Nam không ngừng phát triển qua mọi thời đại > Kết quả khảo cổ học cho biết đồ Gốm đã được người Việt chế tác, sử dụng cách đây khoảng 10. 000 năm. Có thể nói gốm sứ Việt Nam nói riêng hay gốm sứ trên thế giới nói chung không chỉ còn là những đồ dùng thủ công phục vụ nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người chén, ấm, đĩa, tô… mà còn hơn thế nó đã trở thành một nét hồn dân tộc, trở thành một vẻ đẹp riêng, một niềm tự hào riêng nói lên cốt cách, tâm hồn của cả một đất nước. Điển hình là thương hiệu gốm sứ Bát Tràng đã đi vào lòng người biết bao thế hệ trong và ngoài nước. > Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Cụ thể là để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải trải qua các khâu chọn, xử lí và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Gốm thời Lý Đặc điểm gốm sứ tráng men hời Lý 1010-1224 bap gồm gốm men trắng ngà ,men nâu và men ngọc màu xanh. Gốm men ngọc thời Lý rất tinh tế, xương đất được lọc kỹ, dày và chắc. Lớp men gốm dày phủ kín xương gốm, mịn, bóng, sờ có cảm giác mát tay. Xương gốm và lớp men bám vào nhau rất chắc. Gốm men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ. > Men gốm sứ thời Lý trong suốt, sâu thẳm, mịn, lấp lánh ánh sáng. Gốm men ngọc xanh có điểm thêm các sắc vàng chanh, vàng xám nhạt, vàng rơm. Sự khác nhau giữa gốm trắng Lý và gốm trắng Tống Trung Quốc chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương gốm và kỹ thuật chế tác. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Lý với gốm trắng Tống. Gốm thời Trần Gốm thời Trần1225-1339 có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam. > Do Gốm thời Trần1225-1339 phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Về hoa văn trang trí mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như gốm thời Lý. Dễ thấy nhất là với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc chìm, thời Trần còn phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Tóm lại, hoa văn trên các sản phẩm gốm sứ rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so với gốm thời Lý. Gốm thời Lê sơ Gốm thời Lê sơ 1428-1526 có các thương hiệu dòng gốm được phát triển rất rầm rộ. Điển hình nhất là gốm Chu Đậu và gốm sứ Bát Tràng Gốm sứ Chu Đậu Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp. Mặc dù gốm Chu Đậu đã xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ. > Hoa văn chủ đạo của gốm sứ Chu Đậu là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người. Gốm sứ Bát Tràng Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần. Các sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói… ngày càng tinh xảo hơn. Men trang trí trên các sản phẩm gốm sứ Bát Tràng có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng. Bởi thế gốm sứ bát tràng còn được đưa vào trong thơ ca “Ước gì anh lấy được nàng Để anh mua gạch Bát Tràng về xây..” Gốm sứ Việt Nam ngày nay có đặc điểm gì? Tính tới thời điểm hiện tại thì gốm sứ Việt Nam không chỉ khẳng định vị trí của mình trong nước mà còn trên thế giới. Nhiều nước châu Á, châu Âu, đặc biệt là Nhật Bản và Đông Nam Á đã nhập khẩu gốm Việt Nam với số lượng lớn. > Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa ra những kết luận mới về con đường biển thông thương giữa các nước từ Nhật Bản, Việt Nam đến các nước Đông Nam Á, gọi con đường này là “con đường gốm”, thay cho tên “con đường tơ lụa và trầm hương” thường được dùng trước đây. Sự hình thành loại chất liệu sứ với các kỹ thuật sản xuất và trang trí hiện đại hàng loạt các thương hiệu, xưởng sản xuất ra đời. Tuy nhiên thì cái tên Bát Tràng vẫn khẳng định được vị trí của mình không chỉ đối với người Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Hãy cùng chiêm ngưỡng các kiệt tác gốm sứ Việt Nam thương hiệu Bát Tràng thời kỳ hiện đại hóa. Đăng nhập

gốm sứ việt nam qua các thời kỳ